Vay P2P lending: Liệu có phải là tương lai của tín dụng tiêu dùng?

Đánh giá sâu về hoạt động cho vay P2P tại thị trường Việt

by Nguyễn Linh
28 lượt xem
P2P lending:
(1 bình chọn)

Cho vay ngang hàng (P2P lending) là mô hình kinh doanh dịch vụ tài chính dựa trên nền tảng công nghệ số kết nối trực tiếp giữa người vay với người cho vay. Mô hình này đã phát triển phổ biến ở nhiều nước trên thế giới

Thực trạng và cơ hội cho các công ty tài chính trong vay P2P

Sự phát triển của tài chính tiêu dùng

Tài chính tiêu dùng tại Việt Nam đã trải qua những bước phát triển thần tốc trong các năm 2017-2018, với tốc độ tăng trưởng bình quân 30%. Tuy nhiên, từ năm 2019 đến 2021, tốc độ này giảm xuống còn 13,1% do các yếu tố kiểm soát vĩ mô và tác động của dịch bệnh. Dù vậy, quy mô thị trường vẫn tăng gấp đôi sau 5 năm từ 2017 đến 2021.

Tốc độ tăng trưởng nợ xấu trong 5 năm lại có xu hướng ngược lại. Trước dịch COVID-19, tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát trong phạm vi 5 – 6%. Tuy nhiên, dưới tác động của dịch bệnh, năm 2021 tỷ lệ này đã tăng lên 9,6% và xu hướng này vẫn tiếp tục. Nợ xấu trở thành thách thức lớn nhất đối với các công ty tài chính (CTTC).

Vay P2P lending: Liệu có phải là tương lai của tín dụng tiêu dùng?

Cho vay ngang hàng (P2P lending)

Các CTTC do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp phép và quản lý phải tuân thủ quy định nghiêm ngặt về cho vay, thu hồi nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Trong khi đó, các mô hình cung cấp tín dụng khác như vay qua ứng dụng di động, vay P2P (Peer-to-Peer lending) hay dịch vụ cầm đồ không thuộc NHNN quản lý và vận hành như đơn vị kinh doanh cá nhân. Do đó, việc xây dựng cơ chế kiểm soát đối với các tổ chức này là cần thiết.

Tiềm năng và thách thức của vay P2P

Tiềm năng thị trường tài chính tiêu dùng tại Việt Nam rất lớn. Nhiều chính sách đúng đắn từ chính phủ đã giúp nền kinh tế phục hồi nhanh sau đại dịch. Nhóm dân số thuộc độ tuổi lao động từ 25 – 49 tuổi chiếm khoảng 40% dân số, là nhóm khách hàng tiềm năng của các CTTC. Đây là mảnh đất hấp dẫn đối với các tổ chức tài chính nước ngoài. Vì vậy, việc giải quyết các thách thức là rất cấp thiết.

Cơ hội và thách thức đối với tài chính tiêu dùng

Quản lý

Các hoạt động của CTTC do NHNN cấp phép phải tuân thủ các thông tư như 18/2019/TT-NHNN và 43/2016/TT-NHNN. Tuy nhiên, ba vấn đề khó khăn nhất hiện nay rất cần được tháo gỡ:

  • Tăng trưởng tín dụng: Giới hạn tăng trưởng tín dụng hàng năm đã gây khó khăn cho các CTTC thành lập từ năm 2018. Thời gian chưa đủ dài để tích lũy dư nợ cho vay lớn, dẫn đến khả năng tăng thu nhập bị bó hẹp trong khi nợ xấu tăng nhanh.
  • Tỷ lệ nợ xấu: Nợ xấu trung bình ngành tăng dần qua các năm và đến năm 2021 là 9,6%. Nếu dùng tỷ lệ nợ xấu như ngân hàng (3%) để đánh giá năng lực của CTTC, không công ty nào đủ điều kiện xét duyệt mức tăng trưởng hàng năm.
  • Tỷ lệ giải ngân tiền mặt: Thói quen sử dụng tiền mặt của người Việt còn rất cao. Dịch COVID-19 khiến nhu cầu vay tiền mặt của người dân tăng lên. Đáp ứng cho vay tiền mặt là giải pháp giúp người dân không tìm đến “tín dụng đen”.

Cạnh tranh

Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, CTTC không chỉ đối mặt với sự cạnh tranh trong ngành mà còn từ các công ty Fintech (bao gồm P2P lending, vay qua App, vay ngày…), chuỗi cầm đồ. Các công ty này không bị quản lý chặt chẽ bởi Luật Các TCTD.

  • Vay qua App và P2P lending: Khi tìm kiếm từ khóa vay tiền trên Google, rất nhiều website quảng cáo vay tiền nhanh xuất hiện. Các mô hình này tiếp cận khách hàng mọi nơi, cho vay dễ dàng nhưng với lãi suất cao. Hình thức P2P lending là hình thức dân sự, cho vay giữa cá nhân và cá nhân thông qua App trung gian. Việc cho vay lãi suất cao hay bị “xù nợ” không được bảo vệ quyền lợi, khó truy cứu trách nhiệm. P2P lending có thể là nơi núp bóng của “tín dụng đen”.
  • Chuỗi cầm đồ: Không phải là tổ chức tài chính nên không thuộc NHNN quản lý. Các cửa hiệu cầm đồ mọc lên nhiều, gần 6.700 cơ sở dịch vụ cầm đồ. Những biến tướng của chuỗi cầm đồ đã biến chúng thành điểm cho vay tiền mặt cạnh tranh trực tiếp với CTTC.

Khách hàng và truyền thông của vay P2P

Khách hàng của vay P2P

Thu nhập và hành vi vay, trả nợ của khách hàng thay đổi sau dịch bệnh. Tỷ lệ thất nghiệp, giảm thu nhập tăng cao nhất vào quý III/2021 và vẫn chưa giảm. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến công tác thu hồi nợ của CTTC.

Bên cạnh yếu tố khách quan, tỷ lệ khách hàng chây ỳ không trả nợ, vay xong trốn nợ hoặc làm giả hồ sơ vay để chiếm dụng vốn ngày càng tăng.

  • Khách hàng vay trả nợ chậm trễ: Khi nhân viên thu nợ đến gặp, không hợp tác và thậm chí hành hung nhân viên.
  • Vay nợ nhiều CTTC cùng lúc: Thu nhập chỉ vừa đủ trả nợ một khoản vay, dẫn đến mất khả năng thanh toán.
  • Khách hàng là công nhân ở trọ: Trả nợ vài kỳ và dời nhà trọ không để lại thông tin.
  • Mạng xã hội: Nhiều nhóm trên Facebook hướng dẫn cách bùng nợ, đối phó với nhân viên thu nợ.
  • Hồ sơ giả vay tiền: Chiếm dụng vốn của CTTC.

Những câu chuyện này xảy ra từ khi có CTTC ra sản phẩm cho vay tín chấp (2007) và càng ngày càng tinh vi hơn.

Truyền thông

CTTC bị đánh đồng với “tín dụng đen”. CTTC phải tuân thủ quy định của NHNN trong hoạt động cho vay và thu hồi nợ để bảo vệ khách hàng. Tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể áp dụng đối với người đi vay mà không trả nợ để bảo vệ hoạt động của CTTC.

Quy trình thu hồi nợ của CTTC bắt đầu từ việc nhắc nhở khách hàng thanh toán nợ đúng hạn để tránh rơi vào nhóm nợ quá hạn, ảnh hưởng đến CIC (lịch sử trả nợ). Nếu khách hàng trở thành nợ quá hạn, CTTC sẽ có thang giải pháp xử lý nợ theo quy trình và tuân thủ các quy định của NHNN. Cần sự thấu hiểu của truyền thông và sự bảo vệ của cơ quan chủ quản để làm rõ, tách bạch giữa CTTC và tín dụng đen.

Kiến nghị

Để tạo điều kiện thuận lợi cho CTTC phát triển bền vững, cần:

  • Giải quyết khó khăn trong thực hiện Thông tư: NHNN cần tháo gỡ khó khăn cho CTTC trong việc thực hiện các Thông tư 18, Thông tư 43, Thông tư 52.
  • Xây dựng chính sách quản lý riêng: NHNN nên xây dựng chính sách cơ chế quản lý riêng theo đặc thù ngành đối với tài chính tiêu dùng, tạo môi trường hoạt động thông thoáng, an toàn và tuân thủ để CTTC có thể phát triển mạnh mẽ hơn.
  • Nâng cấp hệ thống thông tin CIC: Hệ thống thông tin CIC cần cập nhật đa dạng hơn, bên cạnh thông tin về nợ vay, giúp CTTC có thêm nhiều dữ liệu để ra quyết định cho vay chuẩn xác, hạn chế nợ xấu.
  • Quy định về số lượng tổ chức tín dụng mà khách hàng vay vốn: Cần có quy định rõ ràng về số lượng tổ chức tín dụng mà khách hàng có thể vay vốn hoặc chỉ số dư nợ để kiểm soát rủi ro.
  • Cơ chế bảo vệ CTTC: Cần xây dựng cơ chế bảo vệ CTTC trước những trường hợp khách hàng cố tình không trả nợ, làm giả hồ sơ vay. Quy định này giúp bảo vệ hoạt động của CTTC và đảm bảo sự công bằng trong giao dịch tài chính.

Với các giải pháp và kiến nghị trên, ngành tài chính tiêu dùng tại Việt Nam có thể phát triển mạnh mẽ hơn, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của đất nước.

Lời kết

Vay P2P, một trong những hình thức vay ngang hàng, đã trở thành một phần quan trọng của hệ sinh thái tài chính tiêu dùng tại Việt Nam. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và nhu cầu tài chính ngày càng cao, vay P2P mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức.

Cơ hội cho vay P2P bao gồm khả năng tiếp cận nguồn vốn dễ dàng và nhanh chóng cho cả người vay và người cho vay, tạo ra môi trường đầu tư đa dạng và phong phú. Với sự hỗ trợ từ công nghệ, quá trình vay và cho vay trở nên minh bạch, tiện lợi và tiết kiệm thời gian hơn so với các phương thức truyền thống. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ sau đại dịch, nhu cầu về nguồn vốn cho tiêu dùng và kinh doanh ngày càng tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường vay P2P.

Trong bức tranh tổng thể, vay P2P là một giải pháp tài chính tiềm năng với nhiều lợi ích cho cả người vay và người cho vay. Tuy nhiên, để phát triển bền vững và hiệu quả, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, các công ty tài chính và người tiêu dùng. Chỉ khi đó, vay P2P mới thực sự trở thành một phần quan trọng và an toàn của hệ sinh thái tài chính tiêu dùng tại Việt Nam.

About The Author

Có tý liên quan

Để lại bình luận